Hệ thống trò diễn Dân ca, dân vũ Đông Anh

Các trò diễn Đông Anh được gọi là ngũ trò Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê. Gọi là ngũ trò nhưng thực ra trò diễn Đông Anh gồm 12 trò là: trò Múa đèn, trò Tiên Cuội (hay Tiên phường), trò Tô Vũ, trò Trống Mõ, trò Thiếp, trò Vằn vương (hay trò Hùm), trò Thủy (hay Thủy phường), trò Leo dây, trò Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), trò Hà Lan (hay Hoa Lang), trò Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), trò Ngô quốc. Ngoài ra ở Đông Anh còn có một số tiết mục nữa như trò Đại Thánh, trò Nữ quan...[1]

So với các hình thức diễn xướng dân gian khác ở xứ Thanh, ngũ trò Viên Khê đã bắt đầu có "kịch bản" và kịch bản đã có tích[1]. Ngũ trò Viên Khê gắn liền trò diễn với lời ca, chính vì vậy thay cho cách gọi phổ biến là dân ca Đông Anh, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian đã dùng cụm từ dân ca, dân vũ Đông Anh.

Một số địa phương lân cận thuộc huyện Đông Sơn cũng có hệ thống ngũ trò: Ngũ trò Rủn[ct 4] ở kẻ Rủn, nay thuộc xã Đông Khê, gồm các trò: Múa đèn, Trống Mõ, Tiên Cuội, Ngô quốc, Mí Mẩn[6] và Ngũ trò Bôn ở kẻ Bôn, nay thuộc xã Đông Thanh, gồm các trò: Ngô phường, Lan phường, Tiên phường, Thủy phường, Lăng ba khúc [7] (các xã Đông Khê, Đông Thanh vào đầu thời Nguyễn thuộc tổng Thạch Khê, giáp giới tổng Lê Nguyễn và cùng thuộc huyện Đông Sơn).

Trò Xuân Phả hay trò Láng (xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) cũng có các trò Chiêm Thành, trò Hoa Lang, trò Lục Hồn Nhung, trò Ngô quốc nhưng hình thức thể hiện có khác nhiều.

Trò Múa đèn

Trò Múa đèn hay còn gọi là tổ khúc Múa đèn, là trò diễn tiêu biểu nhất của ngũ trò Viên Khê. Tổ khúc được chia thành nhiều bài, gồm[8]:

  • Thắp đèn
  • Luống bông, luống đậu
  • Vãi mạ
  • Chẻ lạt đan lừ

  • Nhổ mạ
  • Đi cấy
  • Kéo sợi
  • Dệt cửi

  • Vá may
  • Cửa đóng then cài
  • Dâng quạt
  • Đi gặt

Một số tài liệu không ghi nhận các bài Cửa đóng then cài và Dâng quạt mà thay bằng các bài Đánh gà luộc, Cúng cơm mới và Dâng oản[9].

Các bài trong tổ khúc phản ánh chu trình sản xuất theo mùa vụ nông nghiệp. Khi biểu diễn, 12 con trò (là các cô gái) đội trên đầu đĩa đèn dầu lạc (ngày nay thay bằng đĩa nến), vừa hát vừa thực hiện các động tác múa rất uyển chuyển mà không làm đèn rơi xuống. Xen giữa 10 bài là đầu tiên là xướng và đế, các bài cuối: Đánh gà luộc, Cúng cơm mới và Dâng oản chỉ múa mà không hát.

Một số lời ca tiêu biểu:

Bài Thắp đèn:

Sau chín tiếng trống, 12 con trò đồng thanh hát:

Thấp thoáng bóng ngọn đèn quangCòn không ta lấy, dở dang ta đừngTrong nhà ta tứ ngày ràng rạngLòng em lại muốn chơi trăng ngoài thềmMuốn cho trong ấm ngoài êm

Lời xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng giêng, tháng hai ta đi luống bông, luống đậu[ct 5] phải không?Lời đế: Phải rồi. Sau đó chuyển sang bài tiếp theo (Luống bông, luống đậu).

Bài Vãi mạ:

Tay cầm nắm trấu tung raTrấu nát ra tro, thịt nát ra giò, đậu nát ra tương

Bài Chẻ lạt đan lờ (còn gọi là Đan lờ):

Tay cầm dao mác, nắm nanLên chùa thanh vắng ta đan cái lờ Bắt cá thả lờ, còn nhớ hay đã quên?.

Những lời ca này có phần giống ca từ của làn điệu chèo tàu Lên chùa ở Đan Phượng, Hà Nội[10]:

Tay cầm dao mác, thanh nan Lên chùa thanh vắng ta đan cái xờiKhông may xời đổ toi rơi Cho cua bò mất anh thời về không…

Bài Đi cấy[11]:

Lên chùa bẻ một cành senĂn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăngBa bốn cô có hẹn cùng chăng?Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềmMuốn cho trong ấm ngoài êm...

Một số biến thể được ghi nhận như:

Ba bốn o có "lệch" có "bợm"[ct 6] cùng chăng?

Hay:

Ba bốn cô có "lệch" có "bợm" cùng chăng?

Bài Xe chỉ, vá may:

Ngồi thềm xe chỉ, chỉ xeXỏ kim, kim xỏ ngồi hè vá may...

Một biến thể khác:

Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe Xỏ kim, kim xỏ, ngồi thềm vá may Lội sông khăn gói tay mang Mồ hôi gió đượm thương chồng phải theo

Bài Cửa đóng then cài:

Khăng khăng cửa đóng then cài Cửa trong mắc khóa, cửa ngoài cài then Đôi ta còn lạ chưa quen Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.

Bài Đi gặt kết thúc cả tổ khúc với lời ca:

Bao giờ cho lúa bông vàng.Để anh đi gặt cho nàng mang cơm.

Trò Tiên Cuội

Con trò gồm chú Cuội và 12 tiên nữ. Sau khi gặp nhau bên hồ sen, Cuội yêu và lấy cô tiên đẹp nhất. Khi các cô tiên được Ngọc Hoàng gọi về trời, Cuội đau xót và chết. Các tiên nữ thương cảm liền quay lại làm phép cho Cuội hồi sinh. Tất cả cùng múa hát ngợi ca xóm làng.

Trò này thể hiện ước mong có một cuộc sống thanh bình no ấm[1]. Mở đầu là đoạn dâng hương hát chúc, sau đó là đoàn tiên trên trời xuống chơi và ca:[12]

...Xuân vừa gặp tiết thiều quangMúa mừng dân xã thọ trường vinh hoa.

Sau đó là đoạn Tiên Cuội tỏ tình:[13]

...Ô Kiều, ô thước bắc sangChức Ngưu kia cũng một đoàn vầy vui.

Trò Tô Vũ

Cùng với trò Xiêm Thành, trò Tô Vũ không có lời ca[14]. Các con trò gồm bốn ông bụt, một ông sư, một bà vãi đội nhang, một ông tô tượng đúc chuông. Các nhân vật múa các điệu chèo cạn, chèo sâu và chèo đua.

Trò Trống Mõ

Trò Trống Mõ có hai nhân vật mạt hạng trong làng là Trống và Mõ cùng với cu Nhớn, mẹ Mõ. Cuộc sống của người nông dân trong xã hội phong kiến được phản ánh sinh động thông qua những đoạn đối thoại dí dỏm[15]. Nhạc đệm là trống và mõ, lời thoại xen với hát, chủ yếu mượn của ca dao, dân ca.[16]

Trò Thiếp

Trò Thiếp được diễn tại nghè Sâm lần cuối cùng vào năm 1944. Từ tên trò đến lề lối, giọng điệu đều dựa vào tục đánh đồng thiếp, một tập tục mê tín xưa nhưng nội dung lại mang tính chế giễu tệ đồng cốt.

Các con trò gồm tín chủ, thầy cả và bốn phụ lễ, đều do nữ đóng, phục trang sặc sỡ. Các làn điệu được sử dụng: chúc, chầu văn, thỉnh.

Anh tài đủ mặt cùng nhauĐánh loài quỷ đói cụt đầu, cụt tay

Đồng thời, trò Thiếp còn có những bài nói thể hiện nội dung trữ tình[15]:

... Trăm hoa dầu dãi nắng sươngHoa cam, hoa quýt, chàng thương hoa nào?Chàng thương hoa mận hoa đàoCòn bông hoa cúc biết vào tay ai?...

Và:

Mình lấy được ta trăm hoa tươi tốtTuổi ta hăm mốt, tuổi mình hăm hai.

Trò Vằn vương

Mười tám con trò gồm một con hổ, mười sáu thợ săn và một người xướng. Thợ săn đứng thành hình chữ U, bốn người đầu đeo súng còn lại cầm giáo, cùng vây hổ, bắt khênh về. Trò diễn kèm với lời ca.

Trò Thủy

Trò Thủy gồm sáu đoạn: mở đầu, giáo thuyền, khai chèo, đi chèo, giậm mái, chèo bay, lời ca đi liền với các động tác múa. Mười sáu con trò cầm mái chèo, chia hai hàng. Nhạc cụ: trống, thanh la, sênh. Có hai người múa gươm vàng. Trang phục gồm quần trắng, áo đỏ, thắt lưng xanh.[17]

Lời ca như sau:[18]

Mở đầu:

Mở cửa cho thủy tôi vàoĐem trò trình lễ tiêu hao sự tình...

Giáo thuyền:

...Mừng nay khang tháiVận mở dương hanhLuyện tập thủy binhSử thuyền như sử mã...

Khai chèo:

Khen ai khéo mởGỗ dựng làm thuyền...

Đi chèo:

...Mạn thuyền nghiêng đôi bên êm áiMặc kẻ chèo người lái trước sau.

Giậm mái:

Chẳng giậm thì thuyền chẳng điGiậm ra ván nát thuyền thì long đanh...

Chèo bay:

...Ta chèo một mái sang sôngRước lấy đô đốc quận công về đình...

Trò Xiêm Thành

Trò này không có lời ca. Một người đứng giữa cầm trống, các con trò đeo mặt nạ và phục trang, múa theo nhịp trống. Các vai diễn gồm:

  • Hai anh Mõ, một áo đen, một áo xám, cả hai mang mặt nạ nhỏ, xương xương, cầm mõ đánh theo nhịp trống.
  • Thầy thuốc: mặt nạ trán dô, mũi to, miệng rộng, môi hở, lè lưỡi chìa 4 răng ra ngoài, áo kiểu tuồng cổ.
  • Mí Mẩn: Mặt nạ mũi gãy, miệng rộng, môi trên to, môi dưới mỏng, mặc áo thụng vàng.
  • Anh Mếu: mặt nạ miệng mếu, áo thụng đỏ.
  • Người chết: mặt nạ hiền, màu xanh, áo thụng xanh.

Sau một hồi trống dồn, người chết nằm xuống đất, chết. Mếu, Mõ, Mí Mẩn đi mời thầy thuốc. Mí Mẩn nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba lạng vàng, thầy thuốc lắc đầu. Mí Mẩn lại nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba nắm xôi[ct 7]. Thầy thuốc gật đầu, chữa bệnh, người chết sống lại. Tất cả con trò vái và vào.

Trò Hà Lan

Con trò gồm một con kì lân, hai con ngựa, chúa và nhiều lính. Chúa cầm nhịp cho lính hát theo, âm điệu khỏe và nhịp nhàng. Chúa múa cờ lụa trắng, múa siêu đao, múa quạt, quân cũng múa theo. Lời ca chủ yếu chúc vua quan và mong đời sống yên bình.

Trò Tú Huần

Con trò gồm một mẹ và bốn con, đeo mặt nạ và vừa diễn các động tác như cày bừa, kiếm củi, học hành, chơi đùa, vừa hát theo nhịp trống đệm.

Lời ca như sau:

Túi anh những bạc cùng vàngMượn thợ kéo nhẫn cho nàng đeo tay...

Trò Ngô quốc

Trò Ngô được chia làm ba cảnh, biểu diễn trọn một đêm.

  • Cảnh 1: các con trò: thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói biểu diễn các động tác nghề nghiệp theo nhịp trống và sênh.
  • Cảnh 2: thêm một ông lão Ngô (ông già người Tàu) đi bán kẹo, một cô gái mại dâm ghẹo lão Ngô và ba người đi bẻ ngô phụ họa cùng con đĩ. Khi lão Ngô chết, cô mời thầy thuốc đến chữa, thầy địa lý cũng đòi chữa bệnh và lão Ngô sống lại.
  • Cảnh 3: thêm bốn ông bụt đeo mặt nạ, một ông sãi, một bà vãi, một ông tô tượng đúc chuông. Các con trò hát các bài chèo cạn, tô tượng, đúc chuông và diễn như trong trò Tô Vũ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Dân ca, dân vũ Đông Anh http://www.youtube.com/watch?v=U9HLsXiwPr0 http://www.baodatviet.vn/Home/congdongviet/Hoi-sin... http://baothanhhoa.vn/news/18807.bth http://baothanhhoa.vn/news/28686.bth http://baothanhhoa.vn/news/59210.bth http://thanhtra.com.vn/tabid/77/newsid/49839/temid... http://dch.gov.vn/Upload/files/QD3421.pdf http://hocvienamnhachue.vn/viennghiencuu/main/Danh... http://www.vae.org.vn/News_print.asp?id=2497 http://www.vae.org.vn/News_print.asp?id=3976